Tiêu đề Thông báo nội dung trả lời các ý kiến, kiến nghị cử tri của các Bộ, ngành Trung ương
Nội dung

Để thông báo kết quả trả lời các ý kiến, kiến nghị cử tri gửi đến các kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, Đoàn ĐBQH tỉnh tổng hợp nội dung trả lời của các Bộ, ngành Trung ương như sau:

1. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị

Cử tri đánh giá cao hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ở nước ta thời gian qua; tuy nhiên, tình hình dịch bệnh này trên thế giới, đặc biệt là các nước mà Việt Nam có giao thương kinh tế lớn đang diễn biến hết sức phức tạp. Do đó, cử tri kiến nghị Chính phủ cần thận trọng, cân nhắc kỹ trong việc mở cửa lại đường biên giới, nối lại đường bay quốc tế để vừa đảm bảo cả mục tiêu phục hồi kinh tế lẫn phòng chống dịch có hiệu quả, không để bùng phát dịch trở lại.

Bộ Y tế trả lời: (Công văn số 5252/BYT-VPB1 ngày 01/10/2020)

Ngày 29/8/2020, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Thông báo kết luận số 313/TB-VPCP thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về phòng, chống dịch Covid-19 ngày 27/8/2020, trong đó Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo:

“8. Giao Đồng chỉ Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng Chính phủ chủ trì với các Bộ: Ngoại giao, Công an, Quốc phòng, Y tế, Giao thông vận tải... giải quyết các việc sau:

          a. Tổ chức điều phối các chuyến bay đón công dân Việt Nam về nước và tạo thuận lợi đưa các chuyên gia, nhà đầu tư, lao động tay nghề cao nhập cảnh. Mỗi chuyến bay đều phải có phương án cụ thể bảo đảm an toàn kể cả phương án cách ly phù hợp đối với từng đối tượng nhập cảnh.

          b. Rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính, bảo đảm thuận lợi, chặt chẽ, giảm các khâu trung gian không cần thiết, giảm tối đa thời gian giải quyết thủ tục (kể cả các giấy tờ liên quan đến chuyến bay và giấy tờ xác nhận tình trạng bệnh tật...)

          c. Bộ Y tế ban hành ngay hướng dẫn quy trình, thủ tục kiểm tra, theo dõi y tế tạo thuận lợi và bảo đảm an toàn phòng, chống dịch đối với các trường hợp nhập cảnh thời gian ngắn (dưới 14 ngày), ban hành trước ngày 31 tháng 8 năm 2020. ”

“10. Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối họp với các Bộ: Ngoại giao, Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội xử lý ngay vấn đề mở lại đường bay thương mại giữa Việt Nam với Nhật Bản, Hàn Quốc và các nơi có hệ số an toàn cao..., báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 31 tháng 8 năm 2020; trước hết, chỉ đạo thực hiện chuyến bay đưa lao động Việt Nam đi làm việc tại các nước Nhật Bản, Hàn Quốc. ”

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngày 08/9/2020, tại trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh và Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã chủ trì cuộc họp về việc nối lại một số đường bay thương mại quốc tế giữa Việt Nam và một số đối tác và đã thống nhất một số nội dung: (1) Đồng ý phương án nối lại các chuyến bay thương mại quốc tế thường lệ có chở khách giữa Việt Nam và một số đối tác (Từ ngày 15/9/2020 đối với các đường bay: Việt Nam - Trung Quốc (Quảng Châu), Việt Nam - Nhật Bản (Tokyo), Việt Nam - Hàn Quốc (Seoul), Việt Nam - Đài Loan, Trung Quốc (Taipei); từ ngày 22/9/2020 đối với các đường bay Việt Nam - Campuchia (Phnom Penh), Việt Nam - Lào (Vientiane)); (2) Quy định về đối tượng, điều kiện nhập cảnh vào Việt Nam trên các chuyến bay thương mại từ 6 địa bàn trên (không bao gồm người quá cảnh từ nước thứ ba); (3) Quy định về đối tượng quá cảnh từ nước thứ ba nhập cảnh vào Việt Nam trên các chuyến bay thương mại (Thông báo kết luận số 330/TB-VPCP ngày 15/9/2020 thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh).

2. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị

Cử tri kiến nghị cần có quy định các điều kiện thuận lợi cho người dân khi khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế nhất là việc chuyển viện và thanh toán chi phí khám chữa bệnh trái tuyến. Đồng thời, đề nghị mở rộng danh mục thuốc, vật tư, dịch vụ được thanh toán bằng bảo hiểm y tế mới khuyến khích được người dân tham gia Bảo hiểm y tế. Bên cạnh đó, nhiều cử tri đánh giá hiện nay Nhà nước đang rất quan tâm đến việc bảo vệ môi trường, nhất là việc chống rác thải nhựa, tuy nhiên hiện nay các cơ sở y tế vẫn đang sử dụng và thải ra rất nhiều rác thải nhựa; vì vậy, đề nghị ngành y tế sớm có giải pháp xử lý vấn đề này.

Bộ Y tế trả lời: (Công văn số 5250/BYT-VPB1 ngày 01/10/2020)

Câu 1. Cử tri kiến nghị cần có quy định các điều kiện thuận lợi cho người dân khi khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế nhất là việc chuyển viện và thanh toán chi phí khám chữa bệnh trái tuyến. Đồng thời, đề nghị mở rộng danh mục thuốc, vật tư, dịch vụ được thanh toán bằng bảo hiểm y tế mới khuyến khích được người dân tham gia bảo hiểm y tế ).

B Y tế trả lời như sau:

          1. Quy định các điều kiện thuận lợi cho người dân khi khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế nhất là việc chuyển viện và thanh toán chi phí khám chữa bệnh trái tuyến.

Cải cách thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia bảo hiểm y tế khi đi khám bệnh, chữa bệnh cũng như thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế là các nội dung chính trong các văn bản chính sách bảo hiểm y tế mà Bộ Y tế xây dựng; Luật Bảo hiểm y tế 2014, Nghị định số 146/2018/NĐ-CP, Thông tư số 09/2019/TT-BYT đã kịp thời bổ sung các hướng dẫn về khám chữa bệnh và thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế. Trong dự thảo Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, Bộ Y tế tiếp tục xây dựng các quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế và thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.

  2. Về mở rộng danh mục thuốc, vật tư, dịch vụ được thanh toán bằng bảo hiểm y tế mới khuyến khích được người dân tham gia bảo hiểm y tế:

Hiện nay, Danh mục thuốc thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ Bảo hiểm y tế được quy định tại Thông tư số 30/2018/TT-BYT ngày 30/10/2019 ban hành Danh mục và tỷ lệ, điều kiện thanh toán đối với thuốc hóa dược, sinh phẩm, thuốc phóng xạ và chất đánh dấu thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế và Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/3/2015 ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ Bảo hiểm y tế. Như vậy, danh mục thuốc thuộc phạm vi chi trả của Quỹ Bảo hiểm y tế hiện nay đã bao phủ các thuốc điều trị đầy đủ ở các chuyên khoa trong lĩnh vực tân dược và thuốc y học cổ truyền.

Về danh mục thuốc tân dược, so với Thông tư số 40/2014/TT-BYT, Thông tư số 30/2019/TT-BYT bổ sung mới 61 thuốc thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị, phù hợp với sự phát triển khoa học của công nghiệp dược; bổ sung dạng dùng của 6 thuốc, mở rộng tuyến sử dụng của 69 thuốc, mở rộng điều kiện thanh toán 10 thuốc, tăng tỷ lệ thanh toán 6 thuốc nhằm tạo điều kiện cho người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế tăng cường tiếp cận thuốc.

Về danh mục thuốc y học cổ truyền, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/11/2015 về Danh mục vị thuốc, chế phẩm thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ Bảo hiểm y tế hiện có 229 chế phẩm (tăng 102 chế phẩm) và 349 vị thuốc (tăng 49 vị thuốc) so với Thông tư số 12/2010/TT-BYT ngày 29/4/2010, được áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm Bệnh viện Y học cổ truyền, Bệnh viện có khoa Y học cổ truyền, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo quy định.

Quỹ Bảo hiểm y tế xã hội có thể chi trả cho toàn bộ các thuốc có mặt trên thị trường. Việt Nam được đánh giá là một trong số ít các nước trên thế giới có Danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phí đóng bảo hiểm y tế. Bên cạnh đó, Danh mục thuốc bảo hiểm y tế tại Việt Nam được ghi dưới dạng tên hoạt chất/thành phần, không ghi hàm lượng, dạng bào chế và tên thương mại. Như vậy, việc lựa chọn thuốc thành phẩm được Quỹ Bảo hiểm y tế thanh toán tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không bị giới hạn bởi chủng loại thuốc với giá rẻ hay đắt, thuốc nội hay thuốc ngoại. Căn cứ vào mô hình bệnh tật, nhu cầu khám chữa bệnh và khả năng chi trả của Quỹ Bảo hiểm y tế, cơ sở khám chữa bệnh xây dựng Danh mục thuốc sử dụng tại đơn vị để mua sắm lựa chọn thuốc thành phẩm phù hợp. Trong những trường hợp cơ sở khám chữa bệnh không cung ứng được thuốc để điều trị của người bệnh, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cần chuyển người bệnh đến các cơ sở cung ứng đầy đủ thuốc và điều kiện để điều trị cho người bệnh, nhằm bảo đảm quyền lợi của người có thẻ bảo hiểm y tế.

Hiện nay, với mục tiêu đáp ứng ngày càng đầy đủ, chất lượng hơn về nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, theo định kỳ, Bộ Y tế sẽ tiến hành rà soát, sửa đổi và bổ sung Danh mục; đặc biệt chú trọng việc mở rộng danh mục thuốc nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị, bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế và phù hợp với khả năng chi trả của Quỹ bảo hiểm y tế.

Câu 2. Nhiều cử tri đánh giá hiện nay Nhà nước đang rất quan tâm đến việc bảo vệ môi trường, nhất là việc chống rác thải nhựa, tuy nhiên hiện nay các cơ sở y tế vẫn đang sử dụng và thải ra rất nhiều rác thải nhựa; vì vậy, đề nghị ngành Y tế sớm có giải pháp xử lý vấn đề này.

Bộ Y tế trả lời như sau:

Chất thải nhựa đang là vấn đề ưu tiên giải quyết của mỗi quốc gia. Việt Nam là một trong những quốc gia đã cam kết giảm thiểu chất thải nhựa và Bộ Y tế là một trong những Bộ, ngành đi đầu trong việc hưởng ứng và triển khai các giải pháp nhằm giảm thiểu chất thải nhựa từ hoạt động của ngành. Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gửi thư kêu gọi cả nước hành động giải quyết vấn đề chất thải nhựa vào ngày 25/4/2019, Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị số: 08/CT-BYT ngày 29/7/2019 về giảm thiểu chất thải nhựa trong ngành Y tế, trong đó yêu cầu các cơ sở y tế phải xây dựng kế hoạch, mục tiêu, lộ trình giảm thiểu chất thải nhựa từ hoạt động chuyên môn y tế; từ sinh hoạt thường ngày của người bệnh, người nhà người bệnh, nhân viên y tế; thực hiện phân loại triệt để chất thải nhựa, ni lông khó phân hủy để thu gom, tái chế đúng quy định; Phấn đấu tiến tới chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng vật liệu nhựa dùng một lần và ni lông khó phân hủy trong đơn vị.

Đối với việc giảm thiểu chất thải nhựa từ hoạt động chuyên môn y tế, nhiều cơ sở y tế đang thực hiện các biện pháp giảm thiểu như: Giảm sử dụng các vật dụng, vật tư y tế làm từ nhựa, thay thế bằng các sản phẩm làm từ các vật liệu thân thiện môi trường như sử dụng găng tay cao su, khẩu trang, mũ trùm đầu, bọc giầy, túi đựng thuốc bằng giấy; ứng dụng công nghệ số trong chụp X quang, cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ để hạn chế in phim làm bằng nhựa; phân loại triệt để chất thải nhựa để tái chế và sử dụng túi thân thiện môi trường để cấp phát thuốc, đựng chất thải y tế. Tuy nhiên, do đặc thù ngành Y tế, một số trang thiết bị y tế bằng nhựa hiện nay ngay cả trên thế giới cũng chưa có sản phẩm thay thế phù họp và an toàn. Vì vậy để giảm thiểu chất thải nhựa từ những trang thiết bị y tế này, Bộ Y tế đề nghị các sơ sở y tế phải sử dụng đúng theo chỉ định, hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật, không được lạm dụng.

  Đối với việc giảm thiểu chất thải nhựa từ hoạt động sinh hoạt thường ngày, các cơ quan, đơn vị trong ngành Y tế đều đã xây dựng kế hoạch và thực hiện hạn chế sử dụng túi ni lông khó phân huỷ, thay thế chai nhựa đựng nước dung tích nhỏ dùng một lần các sản phẩm thân thiện môi trường hoặc có thể sử dụng lại. Tuy nhiên, tại các cơ sở y tế, phần lớn chất thải nhựa phát sinh từ hoạt động sinh hoạt thường ngày của người bệnh, người nhà người bệnh. Do đó, mặc dù các cơ sở y tế đã tăng cường truyền thông, nhắc nhở người bệnh, người nhà người bệnh nhưng việc thực hiện còn hạn chế. Người dân vẫn còn sử dụng túi ni lông khó phân huỷ dùng 1 lần để đựng các vật dụng, đồ ăn, thức uống mua từ ngoài mang vào cơ sở y tế do sự tiện dụng và sẵn có trên thị trường, trong khi các sản phẩm thân thiện môi trường chưa sẵn có để đáp ứng nhu cầu và giá thành lại khá cao.

Thời gian tới, ngành Y tế tiếp tục tăng cường truyền thông tới người dân để cùng chung tay giảm thiểu chất thải nhựa khi đến sử dụng dịch vụ tại các cơ sở y tế, đồng thời tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến nhằm giảm thiểu chất thải nhựa từ hoạt động chuyên môn y tế.

3. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị:

Hiện nay nhiều học sinh, sinh viên ở địa phương mới ra trường được đào tạo bài bản nhưng không có việc làm. Vì vậy, cử tri kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các ngành có liên quan rà soát, đánh giá lại nhu cầu sử dụng lao động của nền kinh tế để có định hướng đào tạo những ngành nghề phù hợp với nhu cầu thực tế từng địa phương cũng như cả nước, nhằm đảm bảo cho học sinh, sinh viên ra trường có công việc ổn định, tránh lãng phí nguồn lực xã hội.

Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời: (Công văn số 3284/BGDĐT-GDĐH ngày 27/8/2020)

  1. Theo quy định tại khoản 3 Điều 68 được sửa đổi, bổ sung khoản 36, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một sổ Điều của Luật Giáo dục đại học: “Bộ, cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm nghiên cứu, dự báo nhu cầu nhân lực của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý để hỗ trợ công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đại học trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình”. Thực hiện quy định này của Luật, với những ngành trọng yếu (sư phạm, sức khỏe), Bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân các tỉnh hoặc Bộ Y tế về nhu cầu nhân lực đối với ngành đào tạo; với những ngành còn lại, Bộ Giáo dục và Đào tạo giao các cơ sở giáo dục đào tạo chủ động xác định nhu cầu nhân lực đối với ngành đào tạo thông qua các hoạt động sau:

Xin ý kiến Bộ chủ quản về nhu cầu nhân lực đối với ngành đào tạo;

Khảo sát, xác định nhu cầu nhân lực theo trình độ và ngành/chuyên ngành đào tạo khi xây dựng chương trình đào tạo (Quy định tại Điều 6 Thông tư ban hành quy định về khối lượng kiến thức tối thiếu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ số 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16/4/2015);

Khảo sát tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp hàng năm, công khai trên trang thông tin điện tử của cơ sở để xã hội tham khảo và tham gia giám sát khi chọn trường, chọn ngành cho con em theo học.

2. Để góp phần giảm tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được việc làm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang triển khai những hoạt động sau:

Tiếp tục thực hiện Quyết định số 68/2008/QĐ-BGDĐT ngày 09/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về công tác hướng nghiệp, tư vấn việc làm trong các cơ sở giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp.

Thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đào tạo nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của người sử dụng lao động thông qua việc hoàn thiện hành lang pháp lý, tăng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tăng cơ hội họp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp,...

Triển khai một số nhiệm vụ nghiên cứu liên quan, thuộc Chương trình Khoa học Giáo dục Quốc gia giai đoạn 2016-2020, như: nhiệm vụ “nghiên cứu dự báo nhu cầu nguồn nhân lực làm cơ sở xây dựng chương trình đào tạo đến năm 2025”; nhiệm vụ “Nghiên cứu luận cứ, đề xuất mô hình, chính sách nâng cao hiệu quả hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 ở Việt Nam”.

Tổ chức triển khai thực hiện một số đề án như: “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”, “Nâng cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2019 - 2025”, “Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030”.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành có liên quan rà soát, đánh giá lại nhu cầu sử dụng lao động của nền kinh tế để có định hướng đào tạo những ngành nghề phù hợp với nhu cầu thực tế từng địa phương cũng như cả nước, nhằm đảm bảo cho học sinh, sinh viên ra trưòng có công việc ổn định, tránh lãng phí nguồn lực xã hội.

4. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị:

Cử tri  huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông có ý kiến: Tại khu vực gần nhà máy Alumin Nhân Cơ tình trạng ô nhiễm môi trường từ hồ bùn đỏ, tiếng ồn băng chuyền tải quặng, bụi xỉ thải ảnh hưởng đến sức khỏe của người và bám vào cây trồng làm giảm năng suất. Người dân rất bức xúc nên nhiều lần tập trung đông người kéo đến nhà máy và chính quyền địa phương yêu cầu giải quyết. Tuy nhiên, qua nhiều lần giải quyết vẫn chưa có kết luận cụ thể, hiện tại các cơ quan có liên quan vẫn chưa thống nhất được nội dung và dự toán thực hiện nên chưa thể triển khai đánh giá tác động môi trường xung quanh Nhà máy Alumin Nhân Cơ nên vụ việc vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Đề nghị Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng phối hợp với địa phương chỉ đạo các đơn vị có trách nhiệm nhanh chóng giải quyết dứt điểm vấn đề ô nhiễm môi trường, tránh khiếu kiện đông người, kéo dài (Cử tri đã nhiều lần có những kiến nghị liên quan đến vấn đề này nhưng chưa được giải quyết dứt điểm).

Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời: (Công văn số 4925/BTNMT-PC ngày 09/09/2020)

Về vấn đề cử tri phản ánh, Bộ Tài nguyên và Môi trường hàng năm (tính từ năm 2009 - đến nay) đã có nhiều văn bản gửi Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Nông và chủ dự án yêu cầu phối hợp để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc đền bù, giải phóng mặt bằng, di dời dân đến các vị trí an toàn và công tác bảo vệ môi trường đối Dự án Nhà máy sản xuất alumin Nhân Cơ. Ngoài ra, Bộ cũng đã có Tổ giám sát môi trường riêng cho Dự án này từ năm 2009 đến nay. Tổ Giám sát môi trường cũng thường xuyên nhắc nhở về vấn đề nêu trên tới Chủ dự án và các đơn vị có liên quan. Ngày 13/9/2018, Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã có Công văn số 2988/TCMT-TĐ gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Nông, chủ dự án trả lời Văn bản số 3829/UBND-NN ngày 06/8/2018 của ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc xác định khoảng cách an toàn hồ bùn đỏ, Nhà máy alumin Nhân Cơ... đối vớ ikhu dân cư sống xung quanh thuộc Dự án.

5. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị:

Cử tri phản ánh việc khai thác quặng bô xít để phục vụ cho Nhà máy Alumin Nhân Cơ làm sạt lở đất của người dân nhưng không đền bù; việc tiến hành thu hồi diện tích đất để khai thác quặng thì nên thu hồi hết diện tích đất của người dân. Vì vậy, cử tri kiến nghị Bộ Công thương, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chỉ đạo Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt nam, Công ty Nhôm Đắk Nông -TKV phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan của địa phương sớm có phương án hỗ trợ đền bù thiệt hại cho người dân (đây là ý kiến cử tri phản ánh nhiều lần nhưng chưa được giải quyết dứt điểm).

Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trả lời: (Công văn số 1634/UBQLV-NL ngày 01/10/2020)

[1]. về nội dung khai thác quặng bô xít để phục vụ cho Nhà máy Alumin Nhân Cơ làm sạt lở đất của người dân nhưng không đền bù.

  Ngày 16/7/2020, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Nông đã có văn bản số 30/BC-ĐĐBQH “Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri sau kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV”, trong đó có nội dung “Cử tri phản ánh việc khai thác quặng bô xít để phục vụ cho Nhà máy Alumin Nhân Cơ làm sạt lở đất của người dân nhưng không đền bù”.

Sau khi nghiên cứu Báo cáo trên của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Nông, Công ty Nhôm Đắk Nông - TKV (Chi nhánh của TKV) đã rà soát lại nội dung các đơn kiến nghị, phản ảnh của người dân đối với quá trình khai thác quặng bauxit gửi Công ty, xác định trường hợp hộ ông Phạm Hữu Cảnh (địa chỉ: Thôn 13, xã Đắk Wer, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông) kiến nghị việc gia đình ông có diện tích ao bị vùi lấp do quá trình khai thác quặng gây ra. Công ty đã phối hợp với UBND xã Đắk Wer kiểm tra xác minh nội dung đơn kiến nghị của Ông Phạm Hữu Cảnh, các bên đã thống nhất bồi thường thiệt hại và hộ gia đình không còn kiến nghị về nội dung này.

2. Về nội dung kiến nghị khi tiến hành thu hồi diện tích đất để khai thác quặng thì nên thu hồi hết diện tích đất của người dân.

Trong quá tình thực hiện Dự án Khai thác mỏ bauxit Nhân Cơ - Đắk Nông, nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu cho Nhà máy Alumin Nhân Cơ, TKV đã phối hợp với các cơ quan chức năng tỉnh Đắk Nông thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng trong phạm vi ranh giới theo Giấy phép khai thác khoáng sản số 2624/GP-BTNMT cấp ngày 11/11/2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Đối với phần diện tích đất nằm ngoài phạm vi ranh giới theo Giấy phép khai thác khoáng sản số 2624/GP-BTNMT nêu trên (các diện tích này nằm giáp ranh, liền kề với khai trường khai thác mỏ) thì TKV không thể thu hồi hết diện tích theo kiến nghị của người dân mà chỉ phối hợp với các cơ quan chức năng tỉnh Đắk Nông thực hiện thu hồi, chi trả với các diện tích bị ảnh hưởng bởi quá trình khai thác, không đủ điều kiện canh tác như: diện tích nhỏ, không có đường vào, không có nguồn nước tưới... Việc thu hồi, bồi thường đã được TKV thực hiện theo các quy định pháp luật (Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường; Quy định cụ thể một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Nông ban hành kèm theo Quyết định số 07/2015/QĐ-UBND ngày 29/01/2015 của UBND tỉnh Đắk Nông).

6. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị:

Trong những năm qua, dự án hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng đặc biệt khó khăn (Chương trình 135) đã đạt được nhiều kết quả ý nghĩa; tuy nhiên, theo quy định thì có sự đóng góp của người dân, trong khi đời sống của người đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa rất khó khăn nên việc huy động đóng góp này là một gánh nặng cho người dân và rất khó triển khai thực hiện. Cử tri kiến nghị Chính phủ có chính sách tháo gỡ khó khăn trên tạo điều kiện thuận lợi cho người dân vùng đặc biệt khó khăn được đầu tư hạ tầng mà không phải đóng góp, từ đó phát triển sản xuất và giảm nghèo bền vững.

Ủy ban Dân tộc trả lời: (Công văn số 1004/UBDT-CSDT-PC ngày 12/8/2020)

Ngày 10/5/2017, Ủy ban Dân tộc đã ban hành Thông tư 01/2G17/TT- UBDT “Quy định chi tiết thực hiện Dự án 2 (Chương trình 135) thuộc Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020”. Tại Điều 8, quy định đóng góp của cộng đồng và người dân.

Hình thức đóng góp: công lao động, vật liệu tại chỗ, hiến tặng đất và tài sản trên đất, tiền mặt và các hình thức đóng góp khác; mức đóng góp, phân bổ đóng góp để xây dựng, duy tu, bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng thuộc Chương trình do cộng đồng dân cư thống nhất, phù hợp với khả năng của cộng đồng và người dân hưởng lợi.

Không huy động đóng góp bằng tiền đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo để xây dựng, duy tu, bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng thuộc Chương trình. Cộng đồng tự thỏa thuận về chế độ miễn, giảm đóng góp đối với các trường hợp khó khăn.

Như vậy, nhà nước không có quy định nào bắt buộc sự đóng góp của người dân, làm khó khăn thêm cho đời sống của đồng bào.

7. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị:

Sau khi thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương Đảng một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố. Trên cơ sở đó, HĐND tỉnh Đắk Nông đã bàn hành Nghị quyết để quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp và một số chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, bon, bản, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Theo quy định tại Nghị Quyết này, người tham gia công việc ở thôn, bon, tổ dân phố ngoài 03 chức danh Bí thư chi bộ, Trưởng thôn và Trưởng ban công tác Mặt trận, các chức danh còn lại ở thôn, bon, tổ dân phố không hưởng phụ cấp hàng tháng mà được hưởng bồi dưỡng khi trực tiếp tham gia vào công việc của thôn, tổ dân phố với mức bồi dưỡng tính theo ngày công lao động bằng hệ số 0,1 mức lương cơ sở, như vậy là không đảm bảo và tương xứng với yêu cầu công việc đặt ra. Vì vậy, cử tri kiến nghị Nhà nước có chính sách phù hợp để động viên đội ngũ cán bộ bán chuyên trách hoạt động hiệu quả, đặc biệt là tại các địa bàn miền núi diện tích rộng trong khi mật độ dân cư lại thấp.

  Bộ Nội vụ trả lời: (Công văn số 3996/BNV-CQĐP ngày 07/8/2020)

Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 34/2019/NĐ-CP nêu trên quy định: “ Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố có không quá 03 người được hưỏng phụ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước và chỉ áp dụng đối với các chức danh: Bí thư Chi bộ; Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ dân phố; Trưởng Ban công tác mặt trận. Người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố ngoài 03 chức danh nêu trên không hưởng phụ cấp hàng tháng mà được hưởng bồi dưỡng khi trực tiếp tham gia vào công việc của thôn, tổ dân phố từ đoàn phí, hội phí khoán cho các đoàn thể và từ các nguồn quỹ khác (nếu có)”. Đồng thời, căn cứ vào quỹ phụ cấp ngân sách nhà nước khoán và căn cứ vào đặc thù của từng cấp xã, yêu cầu quản lý, tỷ lệ chi thường xuyên của cấp xã và nguồn thu ngân sách của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định mức phụ cấp của từng chức danh, mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh đối với người hoạt động không chuyên trách và mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia công việc của thôn, tổ dân phố.

Thông tư số 13/2019/TT-BNV nêu trên cũng đã quy định các chế độ, tiêu chuẩn, định mức đối với người hoạt động không chuyên trách ở thôn tổ dân phố và người trực tiếp tham gia vào hoạt động ở thôn, tổ dân phố ngoài mức khoán quy định tại Điều 14, Điều 14a Nghị định số 92/2009/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 5, khoản 6, Điều 2 Nghị định số 34/2019/NĐ-CP do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định theo quy định tại khoản 3, Điều 21 Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước. Như vậy,việc quy định chế độ, chính sách đối với người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông là đúng quy định.

8. Cử tri tỉnh Đắk Nông có các kiến nghị:

Hiện nay nhiều học sinh, sinh viên ở địa phương mới ra trường được đào tạo bài bản nhưng không có việc làm. Vì vậy, cử tri kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các ngành có liên quan rà soát, đánh giá lại nhu cầu sử dụng lao động của nền kinh tế để có định hướng đào tạo những ngành nghề phù hợp với nhu cầu thực tế từng địa phương cũng như cả nước, nhằm đảm bảo cho học sinh, sinh viên ra trường có công việc ổn định, tránh lãng phí nguồn lực xã hội.

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội trả lời: (Công văn số 3150/LĐTBXH-VP ngày 14/8/2020)

Thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ giao quản lý nhà nước về lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp (GDNN), trong những năm qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trực tiếp tham mưu hoặc chủ trì, phối hợp với một số Ban của Đảng, các bộ, ngành tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nhằm phát triển lĩnh vực GDNN và bước đầu đã có những kết quả được ghi nhận: Mạng lưới cơ sở GDNN phát triển rộng khắp cả nước, đa dạng về loại hình, trình độ đào tạo và mô hình hoạt động. Tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có trường trung cấp, cao đẳng; đã quy hoạch mạng lưới trường nghề chất lượng cao và các nghề trọng điềm quôc gia, khu vực, quốc tế theo từng cơ sở GDNN, từng vùng, địa phương và trình độ đào tạo; hình thành và phát triển được một số trường nghề đặc thù để đào tạo cho người khuyết tật, người dân tộc thiểu số và trường đào tạo các ngành năng khiếu (văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao). Kết quả tuyển sinh trung bình mỗi năm là khoảng trên 2 triệu người.

Hiệu quả đào tạo nghề đang ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu và yêu cầu sử dụng của thị trường lao động, doanh nghiệp cũng như của người học được cộng đồng và xã hội ghi nhận. Những năm gần đây, tỷ lệ học sinh, sinh viên tốt nghiệp trình độ cao đẳng, trung cấp có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt khoảng 85% (trong đó, cao đẳng đạt 87%, trung cấp đạt 82%). Một số trường có 100% học sinh, sinh viên tốt nghiệp cao đẳng và trung cấp có việc làm ngay như: trường Cao đẳng kỹ nghệ II, trường Cao đẳng cơ điện Hà Nội, trường Cao đẳng nghề số 1, trường Cao đẳng Giao thông vận tải Trung ương II. Đối với ngành, nghề trọng điểm, tỷ lệ việc làm của học sinh, sinh viên tốt nghiệp trình độ cao đẳng, trung cấp có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp đạt trên 90%. Kỹ năng của người lao động được doanh nghiệp đánh giá đáp ứng 89.93% so với yêu cầu của doanh nghiệp.

Đạt được kết quả này là do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chủ động phối hợp các bộ, ngành, địa phương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội nghề nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế trong chỉ đạo và điều hành hoạt động của hệ thống GDNN. Bộ đặc biệt quan tâm đến việc phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp để thu thập, phân tích, đánh giá các thông tin về cung - cầu thị trường lao động, qua đó chỉ đạo, điều hành các hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo nghề tại các cơ sở GDNN. Cụ thể: Đã thành lập tổ công tác gắn kết GDNN với thị trường lao động và việc làm bền vững nhằm thúc đẩy các chương trình hợp tác với các Hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp trong các hoạt động GDNN. Thường xuyên phối hợp với các bộ, ngành trong quản lý điều hành hoạt động GDNN, sắp xếp mạng lưới cơ sở GDNN, xây dựng chuẩn đầu ra, kiểm tra đánh giá, phát triển chương trình đào tạo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý.... nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề.

Hàng năm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giao Cục Việc làm điều tra “Thực trạng và nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp” để thu thập thông tin về tình hình sử dụng lao động và nhu cầu tuyển dụng lao động của doanh nghiệp nhằm đánh giá việc gắn kết giữa đào tạo nghề nghiệp và tình hình sử dụng lao động; đánh giá mức độ đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp đối với người lao động.

9. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị:

Về việc đầu tư, sửa chữa và xử lý những vần đề liên quan đến Quốc lộ 28 (cả đoạn nối dài): Cử tri đã kiến nghị nhiều lần và Bộ Giao thông vận tải cũng đã có trả lời để Đoàn ĐBQH tỉnh thông báo cho cử tri biết. Tuy nhiên, do các văn bản của Bộ còn mang tính cung cấp thông tin chung, chưa có lộ trình giải quyết cụ thể, rõ ràng, trong khi đây công trình giao thông rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng của tỉnh Đắk Nông và của từng người dân. Vì vậy, cử tri tiếp tục kiến nghị Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và các Bộ ngành liên quan sớm có kế hoạch đầu tư nâng cấp, sửa chữa và giải quyết dứt điểm những kiến nghị của cử tri có liên quan đến tuyến đường này.

Bộ Giao thông vận tải trả lời: (Công văn số 7574/BGTVT-KHĐT ngày 04/8/2020)

Trước tiên, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) trân trọng cảm ơn cử tri và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Nông đã quan tâm, góp ý đối với công tác quản lý, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông trên địa bàn tỉnh Đắk Nông nhằm giúp công tác quản lý nhà nước của Bộ ngày càng tốt hơn, đáp ứng nhu cầu của xã hội và người dân. Về nội dung kiến nghị của cử tri nêu trên, Bộ GTVT xin trả lời như sau:

Quốc lộ 28 được xác định là tuyến đường bộ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Nông nói riêng, của vùng duyên hải miền Trung và Tây Nguyên nói chung. Vì vậy, Bộ GTVT đã có Quyết định số 1912/QĐ- BGTVT ngày 11/10/2019 giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tổ chức lập Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư đoạn Gia Nghĩa - Quảng Khê trên Quốc lộ 28 đoạn qua tỉnh Đắk Nông làm cơ sở xác định trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 theo quy định của Luật đầu tư công.

Hiện nay, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đang xây dựng nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư công giai đoạn 2021-2025 trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Sau khi cấp có thẩm quyền ban hành, Bộ GTVT sẽ căn cứ nguyên tắc, tiêu chí, mức phân bổ vốn đầu tư công giai đoạn 2021-2025; Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 29/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ; Văn bản số 5743/BKHĐT-TH ngày 14/8/2019 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về lập kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm giai đoạn 2021-2025 và Luật Đầu tư công để rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên và báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Trong thời gian trước mắt, Bộ GTVT sẽ giao Tổng cục Đường bộ Việt Nam tiếp tục tăng cường công tác duy tu, sửa chữa, đảm bảo êm thuận và an toàn giao thông trên QL28. Trong năm 2020, Bộ GTVT đã bố trí 51,0 tỷ đồng và dự kiến năm 2021 sẽ bố trí khoảng 68,75 tỷ đồng cho công tác bảo trì QL28.

10. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị:

Những năm gần đây giá cả nhiều mặt hàng nông sản bấp bênh, rất thấp trong khi giá vật tư nông nghiệp và nhân công luôn ở mức cao đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của đa số nông dân, thu không bù được chi, rất nhiều hộ dân có nguy cơ tái nghèo cao. Vì vậy, cử tri kiến nghị Chính phủ tăng cường phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể Trung ương, chỉ đạo đơn vị có liên quan cùng các địa phương đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Có giải pháp căn cơ trong kiểm soát chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh lưu thông, mở rộng kênh phân phối các mặt hàng nông sản Việt Nam để thúc đẩy thị trường nội địa, giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường nước ngoài, hạn chế việc quá tập trung vào một thị trường.

Bộ Công thương trả lời: (Công văn số 6909/BCT-KH ngày 16/9/2020)

Để mở rộng kênh phân phối, tăng kết nối phát triển thị trường nội địa giữa các doanh nghiệp trong nước, trong những năm gần đây, Bộ Công Thương đã thực hiện một số công việc trọng tâm như sau:

  Để thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 15 tháng 6 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào chuỗi phân phối sản phẩm sản xuất tại Việt Nam tại thị trường trong nước, Bộ Công Thương đã ban hành Công văn số 10050/BCT-TTTN ngày 11 tháng 12 năm 2018 gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Sở Công Thương các tỉnh, thành phố nhằm phổ biến, hướng dẫn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào các chương trình, đề án, dự án có nội dung hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi phân phối sản phẩm Việt Nam tại thị trường trong nước.

  Chủ trì và phối hợp với các đơn vị khác thuộc Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố (trực tiếp chỉ đạo và phối hợp với Sở Công Thương) triển khai tổ chức nhiều Hội nghị như: Hội nghị kết nối tiêu thụ dưa hấu và các mặt hàng nông sản trong và ngoài nước tại tỉnh Quảng Ngãi (tháng 4 năm 2018); các Hội nghị xúc tiến tiêu thụ vải thiều và nông sản năm 2018, 2019 tại Bắc Giang, Hội nghị xúc tiến tiêu thụ vải thiều của tỉnh Bắc Giang tại Bằng Tường, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc; Tuần lễ vải thiều Thanh Hà - Hải Dương, nhãn lồng Hưng Yên, Hội nghị xúc tiến tiêu thụ nhãn Sơn La 2020 tại huyện Sông Mã, phối họp Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận xúc tiến tiêu thụ quả thanh long tại Ấn Độ...

Từ định hướng, phương pháp phù hợp, Bộ Công Thương đã phối hợp và hỗ trợ các địa phương trong công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản (như quả vải của tỉnh Bắc Giang, quả xoài của tỉnh An Giang, quả thanh long của tỉnh Bình Thuận...), nhiều địa phương đã chủ động vận dụng và xây dựng các Đề án đẩy mạnh chuỗi cung ứng nông sản, hoạt động kết nối cung cầu hàng hóa như: Sơn La, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hưng Yên, Hải Dương, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, An Giang, Hậu Giang, Phú Yên, Khánh Hòa, Đắk Nông....

Các Hội nghị được tổ chức đã ghi nhận kết quả rất tích cực, góp phần kết nối giữa các nhà phân phối, kinh doanh nông sản trong và ngoài nước với các nhà sản xuất, bà con nông dân, theo quy mô ngày càng tăng từ một vài tỉnh, mở rộng sang nhiều tỉnh, từ một vùng phát triển lên liên kết vùng đã tạo thuận lợi và điều kiện cho việc tiêu thụ nông, lâm, thủy hải sản sản được dễ dàng hơn.

Để tiếp tục mở rộng kênh phân phối, tăng kết nối phát triển thị trường nội địa giữa các doanh nghiệp trong nước, trong thời gian tới Bộ Công Thương tiếp tục thực hiện một số công việc trọng tâm như sau:

Phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong việc triển khai Chương trình bình ổn thị trường, giá cả, góp phần tiêu thụ sản phẩm nông sản với giá ổn định. Việc triển khai chương trình vừa thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát, vừa tạo điều kiện để gắn kết các doanh nghiệp sản xuất, phân phối với nông dân, qua đó giúp nông dân yên tâm sản xuất khi đầu ra tiêu thụ ổn định.

Tiếp tục phối hợp với các địa phương tổ chức các hội nghị kết nối cung cầu để trao đổi, tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn, xúc tiến mở rộng thị trường, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ hàng hóa nói chung và hàng nông sản nói riêng tại thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.

Tăng cường phối hợp ở cấp địa phương giữa Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Sở Công Thương, đặc biệt là ở những địa phương có nông sản số lượng lớn, thiết lập đầu mối tại tất cả các Sở Công Thương để tiếp nhận các thông liên quan đến tình hình tiêu thụ (sản lượng, giá cả, khả năng xuất khẩu, số lượng cần tiêu thụ trong nước...) để kịp thời thông tin cho các các nhà phân phối, các chợ đầu mối tổ chức tiêu thụ.

  Tiếp tục đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu các sản phẩm hàng tiêu dùng, nông sản, thủy sản của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, hộ nuôi trồng trong nước đến các nhà phân phối (hệ thống siêu thị, chuỗi các cửa hàng cung cấp sản phẩm nông sản, thủy sản và các chợ đầu mối, các chợ dân sinh kinh doanh nông sản, thủy sản).

  Chủ động đưa hàng tiêu dùng, nông sản vào hệ thống phân phối của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hướng dẫn các doanh nghiệp phân phối trong nước cũng như các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) triển khai các chương trình liên kết ổn định, lâu dài với nhà sản xuất và người nông dân để tiêu thụ hàng hóa qua các hệ thống phân phối trong nước, cũng như xuất khẩu thông qua các cơ sở phân phối của các doanh nghiệp này ở nước ngoài.

Ngoài ra, trên cơ sở Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05 tháng 7 năm 2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đề nghị các doanh nghiệp xem xét, chủ động thực hiện ký hợp đồng trước thời vụ theo quy định của Nghị định này.

11. Cử tri tỉnh Đắk Nông kiến nghị:

Cử tri có ý kiến nhân dân đã có ý thức tiết kiệm trong việc sử dụng điện. Vì vậy, kiến nghị ngành điện Việt Nam nên áp dụng bán 01 mức giá điện tiêu dùng cho hộ gia đình, nếu tính theo bậc thang thì rất cao, gây khó khăn cho người dân. Đề nghị ngành điện và Bộ Công thương nghiên cứu, điều chỉnh cách tính giá điện cho phù hợp hơn.

  Công bố cơ sở khoa học, thực tiễn của việc tính giả điện theo bậc thang (6 bậc) để tạo đồng thuận của người dân, tránh nghi ngờ nhóm lợi ích; xem xét lại cách tính giá bán điện bình quân cho phù hợp, đảm bảo minh bạch và đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người dân và doanh nghiệp.

  Điều chỉnh cách tính giá điện cho phù hợp hơn. Đề nghị ngành Điện thay đổi cách tính cho phù hợp, nên áp dụng bán 01 mức giá điện tiêu dùng cho hộ gia đình, nếu tỉnh theo bậc thang thì rất cao, gây khó khăn cho người dân.

Bộ Công thương trả lời: (Công văn số 6889/BCT-KH ngày 16/9/2020)

Thực hiện chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, ý kiến của cử tri tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cả nước liên quan đến việc nghiên cứu, cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện, Bộ Công Thương đã chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) xây dựng Đề án cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện. Trên cơ sở báo cáo của EVN, Bộ Công Thương đã nghiên cứu, xây dựng các phương án cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện sinh hoạt (1, 3, 4 và 5 bậc) và gửi xin ý kiến rộng rãi các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Đoàn đại biểu Quốc hội 63 tỉnh thành; các Bộ, ngành, các hiệp hội ngành hàng.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 192/TB- VPCP ngày 28 tháng 5 năm 2020 của Văn phòng Chính phủ về nghiên cứu, sửa đổi Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg ngày ngày 07 tháng 4 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ quy định về cơ cấu biểu giá bán lẻ điện, Bộ Công Thương đã có Công văn số 5686/BCT-ĐTĐL ngày 05 tháng 8 năm 2020 gửi xin ý kiến các cơ quan thuộc Quốc hội; các Bộ, ngành, tổ chức; Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về dự thảo Quyết định và các phương án sửa đổi cơ cấu biểu giá bán lẻ điện. Trong đó, Bộ Công Thương đã đề xuất cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện sinh hoạt từ 6 bậc thang xuống còn 5 bậc thang, trong đó, đối với bậc 1 của biểu giá điện sinh hoạt bậc thang mới được tăng lên ở mức từ 0-100 kWh và bổ sung đối tượng khách hàng là các cơ sở lưu trú du lịch, doanh nghiệp dịch vụ logistics để áp dụng giá bán điện theo các ngành sản xuất. Trên cơ sở tổng họp ý kiến góp ý của các Bộ ngành, đơn vị, Bộ Công Thương sẽ hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định cơ cấu biểu giá bán lẻ điện (thay thế Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg) để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

12. Cử tri tỉnh Đắk Nông có ý kiến:

Hiện nay giá cả các mặt hàng nông sản xuống quá thấp ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân trong khi lãi suất ngân hàng cao; phương pháp định giá tài sản của các ngân hàng thương mại hiện nay không có sự thống nhất chung dẫn đến việc định giá cho vay không ổn định (trước cho vay số lượng lớn nay định giá lại để đáo hạn thì chỉ cho vay số lượng ít lại từ đó dẫn đến người dân phải tìm đến vay tín dụng đen – tiềm ẩn quá nhiều rủi ro). Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Ngân hàng thương mại điều chỉnh mức lãi suất cho vay và giải pháp đồng bộ trong toàn hệ thống ngân hàng về vấn đề định giá tài sản của người vay và có giải pháp hỗ trợ người vay (giảm thiểu các thủ tục hành chính, đạo đức cán bộ ngành ngân hàng…) tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nhằm giảm thiểu việc người dân tìm đến và phụ thuộc vốn vay tín dụng đen. Đồng thời có giải pháp giảm lãi suất, khoanh nợ, giãn nợ hỗ trợ cho người dân thời điểm khó khăn này.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trả lời: (Công văn số 5684/NHNN-VP ngày 07/8/2020)

1.  Về   việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay và giải pháp hỗ trợ người vay, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nhằm giảm thiểu việc người dân tìm đến và phụ thuộc vốn vay tín dụng đen:

Trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, từ đầu năm 2020 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều chỉnh giảm liên tiếp 02 lần các mức lãi suất với quy mô cắt giảm tương đối mạnh trong nhiều năm qua, cụ thể: (i) Ngày 17/3/2020, NHNN giảm các mức lãi suất điều hành từ 0,5-1%/năm, giảm 0,5% trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên; (ii) Ngày 13/5/2020, NHNN tiếp tục giảm đồng bộ 0,5%/năm các mức lãi suất điều hành để phát tín hiệu mạnh mẽ và nhất quán về định hướng điều hành giảm lãi suất, sẵn sàng hỗ trợ khoản cho các tổ chức tín dụng (TCTD); giảm 0,3- 0,5%/năm trần lãi suất huy động và tiếp tục giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên nhằm tiếp tục giảm chi phí vốn vay của khách hàng, hiện ở mức 5%/năm. Đồng thời, đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020 về các giải pháp cấp bách của ngành Ngân hàng nhằm tăng cường phòng chống và khắc phục khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19, trong đó, chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí hoạt động, cắt giảm lợi nhuận, lương, thưởng để giảm lãi suất cho vay ở mức tối đa.

Chính sách điều chỉnh giảm đồng bộ lãi suất của NHNN đã và đang góp phần giảm bớt khó khăn cho nền kinh tế, kịp thời hỗ trợ vốn có chi phí hợp lý cho doanh nghiệp, người dân vay để phục hồi, phát triển sản xuất kinh doanh. Kết quả, mặt băng lãi suất huy động và cho vay có xu hướng giảm. Hiện, lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức 6,0-9,0%/năm đối với ngắn hạn; 9,0-11%/năm đối với trung và dài hạn; Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND các lĩnh vực ưu tiên giảm 1,0%/năm so với đầu năm và hiện ở mức 5%/năm.

Bên cạnh việc giảm mặt bằng lãi suất, NHNN đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ người dân tiếp cận vốn tín dụng, hạn chế tín dụng đen như:

Thường xuyên rà soát để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với các tổ chức tài chính vi mô, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, các quy định cho vay tiêu dùng, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống... tạo điều kiện cho TCTD mở rộng các sản phẩm, kênh cho vay phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của người dân, nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

  Tổ chức các hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để triển khai giải pháp mở rộng tín dụng phục vụ sản xuất và tiêu dùng, nhằm hạn chế tín dụng đen.

  Chỉ đạo TCTD cân đối vốn để phát triển các sản phẩm cho vay tiêu dùng, phục vụ nhu cầu đời sống chính đáng, cấp bách của người dân; đơn giản hóa quy trình thủ tục nội bộ, tạo thuận lợi hơn nữa cho khách hàng vay vốn; đẩy mạnh áp dụng Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng; tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tiếp tay cho các đối tượng cho vay nặng lãi...

Thời gian tới, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng cường công tác tuyên truyền các sản phẩm tín dụng của hệ thống ngân hàng tại các địa bàn nông thôn, vùng sâu vùng xa để người dân nắm bắt và tiếp cận dịch vụ; đa dạng hóa các sản phẩm cho các đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản phẩm tín dụng tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu vốn nhỏ lẻ của người dân.

2. Về vấn đề định giá tài sản của người vay:

Việc định giá tài sản bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật tại Bộ luật Dân sự, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Theo đó các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức có chức năng thẩm định giá tài sản để có cơ sở xác định giá trị của tài sản bảo đảm. NHNN đã ban hành các văn bản quy định về quy trình cho vay trong đó có quy định trách nhiệm của TCTD trong việc định giá tài sản bảo đảm của khoản vay. NHNN cũng đã chỉ đạo các TCTD thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật, chỉ đạo, hướng dẫn của NHNN về hoạt động cấp tín dụng, trong đó tập trung vào một số nội dung như: (i) Nâng cao chất lượng công tác thẩm định điều kiện cấp tín dụng, công tác thẩm định tài sản bảo đảm, định giá, quản lý tài sản bảo đảm; (ii) rà soát, ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định nội bộ về điều kiện cấp tín dụng, quy trình thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng, quản lý tài sản bảo đảm, định giá tài sản bảo đảm...; (iii) tăng cường giám sát, kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các quy định của NHNN và quy định nội bộ của TCTD về cấp tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng, thẩm định, định giá và quản lý tài sản bảo đảm...

Bên cạnh đó, nội dung cấp tín dụng (trong đó có việc thẩm định, xét duyệt cho vay, việc chấp hành quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay) là một trong những nội dung quan trọng khi NHNN triển khai các cuộc thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện các sai phạm, tồn tại và yêu cầu TCTD khắc phục chỉnh sửa. NHNN sẽ theo dõi, giám sát chặt chẽ hoạt động cấp tín dụng của TCTD, trong đó có việc định giá tài sản bảo đảm nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động của TCTD.

3. Về   giải pháp khoanh nợ, giãn nợ, hỗ trợ người dân trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19:

Nhằm tạo cơ sở pháp lý để TCTD tháo gỡ khó khăn về vốn vay cho khách hàng, NHNN đã kịp thời ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19. Theo đó, khách hàng được cơ cấu nợ gốc và lãi đến hạn với thời hạn phù hợp và không bị chuyển nợ xấu, không bị tính lãi phạt; đồng thời khách hàng sau khi được cơ cấu nợ và giữ nguyên nhóm nợ vẫn có điều kiện đế tiếp cận các nguồn vay mới. Đây được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp và người dân khắc phục khó khăn, phục hồi sản xuất kinh doanh trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19.

Trong thời gian tới, trên cơ sở bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính, tiền tệ trong nước và quốc tế, NHNN sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng phù hợp, tăng cường cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng và khắc phục khó khăn, nhanh chóng phục hồi sản xuất kinh doanh. Hiện nay, trên cơ sở tổng hợp các kiến nghị của doanh nghiệp, người dân, TCTD, chi nhánh NHNNg trong 03 tháng thực hiện Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, NHNN đang hoàn thiện để sớm ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01/2020/TT-NHNN nhằm bảo đảm phù hợp với tình hình diễn biến dịch bệnh Covid-19 tác động đến kinh tế vĩ mô, tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hỗ trợ đúng đối tượng, không để lợi dụng chính sách trục lợi, gây rủi ro cho hệ thống các TCTD theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Trên đây là tổng hợp kết quả trả lời ý kiến, kiến nghị cử tri của các Bộ, ngành Trung ương, Đoàn ĐBQH tỉnh tổng hợp gửi đến Ban Thường trực MTTQVN tỉnh và các đơn vị, địa phương để thông báo cho cử tri biết.

 

Ngày bắt đầu 28/10/2020
Ngày kết thúc 31/12/2020
Kiểu thông báo Văn bản
Đơn vị thông báo Đơn vị khác
Tài liệu đính kèm
Thông báo khác