THÔNG TIN DÀNH CHO DU KHÁCH
Ngày 29/6/2006, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11 (gọi tắt là Luật năm 2006), và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy công tác trợ giúp pháp lý phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trợ giúp pháp lý, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật nói chung, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn nói riêng.
Tuy nhiên, qua hơn 10 năm thi hành, Luật năm 2006 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập như: đối tượng được trợ giúp pháp lý chưa được đầy đủ, chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý nhiều lúc còn chưa được bảo đảm, chưa chuyên nghiệp, tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề của người thực hiện trợ giúp pháp lý chưa quy định thống nhất, tổ chức bộ máy trợ giúp pháp lý còn cồng kềnh, hiệu quả xã hội hóa còn hạn chế... Đặc biệt là trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, nhiều đạo luật mới quan trọng đã được Quốc hội ban hành, nhiều chính sách cải cách được thông qua, trong đó có việc tăng cường cải cách pháp luật, cải cách tư pháp theo định hướng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, ngày 20/6/2017 tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 (gọi tắt là Luật năm 2017) với nhiều nội dung mới quan trọng, đáp ứng được yêu cầu của công tác trợ giúp pháp lý hiện nay. Luật năm 2017 sẽ có hiệu lực thi hành kể từ 01/01/2018 và thay thế cho Luật năm 2006. Việc xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 là nhằm tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất với Hiến pháp 2013 và các luật được Quốc hội ban hành gần đây để phát triển bền vững công tác trợ giúp pháp lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước, nâng cao chất lượng của hoạt động này.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 gồm có 08 chương và 48 điều, giảm 04 điều so với Luật năm 2006. So với Luật năm 2006, Luật năm 2017 có những điểm mới quan trọng đáng chú ý sau:
1. Về chính sách của Nhà nước về trợ giúp pháp lý:
Luật năm 2017 quy định cụ thể, chi tiết hơn về chính sách của Nhà nước về trợ giúp pháp lý, theo đó Điều 4 quy định:
"1. Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước.
2. Nhà nước có chính sách để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
3. Nhà nước có chính sách nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý, thu hút các nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý.
4. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp cho hoạt động trợ giúp pháp lý".
Bên cạnh việc kế thừa chính sách trợ giúp pháp lý đã được quy định trong Luật năm 2006, trong đó vẫn xác định "Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của nhà nước", Luật năm 2017 đã bổ sung thêm các chính sách mới để đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý, thu hút các nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý, hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp cho hoạt động trợ giúp pháp lý.
Ngoài ra, Luật năm 2017 còn quy định rõ: Nhà nước có trách nhiệm bố trí kinh phí hàng năm cho công tác này. Đối với các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, Luật năm 2017 còn có quy định ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung ngân sách hàng năm của Trung ương để hỗ trợ việc thực hiện vụ việc phức tạp, điển hình (khoản 2, Điều 5). Đây là nội dung được luật hóa theo nội dung của Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020 và hỗ trợ tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình.
2. Về người được trợ giúp pháp lý:
Luật năm 2017 đã mở rộng nhóm người được trợ giúp pháp lý từ 6 lên 14. Theo đó, 2 trường hợp được kế thừa hoàn toàn từ Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 đó là người thuộc hộ nghèo và người có công với cách mạng (khoản 1, 2 Điều 7); 02 trường hợp được kế thừa và mở rộng là trẻ em không nơi nương tựa thành tất cả trẻ em, người dân tộc thiểu số thường trú thành cư trú (gồm cả thường trú và tạm trú) tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (khoản 3, 4 Điều 7).
Luật năm 2017 cũng bổ sung 02 nhóm người được trợ giúp pháp lý là người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo để bảo đảm chính sách hình sự đối với các nhóm đối tượng này (khoản 5, 6 Điều 7);
Áp dụng trợ giúp pháp lý đối với 8 nhóm người có khó khăn về tài chính (khoản 7 Điều 7), không có khả năng để thuê dịch vụ pháp lý đó là: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; Người nhiễm chất độc da cam; Người cao tuổi; Người khuyết tật; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; Nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; Nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; Người nhiễm HIV.
Chính phủ sẽ có quy định chi tiết về điều kiện có khó khăn về tài chính áp dụng với các nhóm người này phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
3. Về tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
Khoản 1, Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định: "Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý".
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư pháp, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng (Khoản 1, Điều 11); Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có thể có Chi nhánh. Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và chưa có tổ chức hành nghề luật sư hoặc tổ chức tư vấn pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Chi nhánh. Căn cứ nhu cầu và điều kiện thực tế tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước (Khoản 2, Điều 11).
Tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý và tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý (Khoản 1, Điều 12);
Việc tham gia trợ giúp pháp lý của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật được thực hiện thông qua cơ chế ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý và đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý. Tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký kết hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý 2017 (Khoản 2, Điều 12); Tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý 2017 (Khoản 3, Điều 12).
Như vậy, Luật năm 2017 chỉ điều chỉnh hoạt động trợ giúp pháp lý do Nhà nước tổ chức thực hiện, các dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các tổ chức xã hội sẽ không chịu sự điều chỉnh của Luật Trợ giúp pháp lý 2017.
So với Luật năm 2006, có thể thấy tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý đã được hạn chế lại so với trước bởi vì Luật năm 2017 đã quy định các điều kiện cụ thể để tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý.
4. Hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 14)
Hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý được ký kết giữa Sở Tư pháp với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và giữa Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước với luật sư, cộng tác viên trợ giúp pháp lý về việc thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về dân sự (Khoản 1).
Căn cứ yêu cầu trợ giúp pháp lý và thực tiễn tại địa phương, Sở Tư pháp lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với tổ chức có nguyện vọng và có đủ điều kiện sau đây (Khoản 2): Có lĩnh vực đăng ký hoạt động phù hợp với lĩnh vực trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này;Là tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn pháp luật có ít nhất 01 tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên hoặc 01 luật sư làm việc thường xuyên tại tổ chức; Có cơ sở vật chất phù hợp với hoạt động trợ giúp pháp lý; Không đang trong thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật.
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước căn cứ vào nhu cầu trợ giúp pháp lý, nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý tại địa phương lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với luật sư có đủ các điều kiện sau đây (Khoản 3): Không đang trong thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề luật sư; Không bị cấm hành nghề hoặc bị hạn chế hoạt động nghề nghiệp theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; Không đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; Được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đang làm việc hoặc cơ quan, tổ chức mà luật sư ký kết hợp đồng lao động.
Tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tự nguyện thực hiện trợ giúp pháp lý bằng nguồn lực của mình được đăng ký tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý như sau (Khoản 1, Điều 15): Là tổ chức hành nghề luật sư có đủ điều kiện quy định tại các điểm a, c và d khoản 2 Điều 14 của Luật này; Hoặc, là tổ chức tư vấn pháp luật có đủ điều kiện quy định tại các điểm a, c và d khoản 2 Điều 14 của Luật này và có ít nhất 01 tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên hoặc 01 luật sư làm việc thường xuyên tại tổ chức.
5. Về người thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 17)
Khoản 1, Điều 17 quy định về người thực hiện trợ giúp pháp lý gồm: Trợ giúp viên pháp lý; Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Cộng tác viên trợ giúp pháp lý.
Như vậy, về mặt số lượng, hình thức nhóm người thực hiện trợ giúp pháp lý so với Luật năm 2006 không có gì thay đổi. Tuy nhiên, về mặt tổng thể thì số lượng người thực hiện trợ giúp pháp lý theo Luật năm 2017 đã bị hạn chế. Cụ thể:
Thứ nhất, luật sư chỉ thực hiện trợ giúp pháp lý theo 02 phương thức như sau:
Theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước: Các luật sư này được ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với các Trung tâm trợ giúp pháp lý và thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng. Khi thực hiện trợ giúp pháp lý, luật sư làm việc theo hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý;
Hoặc, theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Luật sư là thành viên của các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý.
Như vậy, luật sư chỉ thực hiện trợ giúp pháp lý trong phạm vi hạn chế của hai phương thức trên, còn nếu không theo phương thức này, luật sư không được thực hiện trợ giúp pháp lý.
Thứ hai, tư vấn viên pháp luật chỉ được thực hiện trợ giúp pháp lý nếu có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý. Điều này có nghĩa là những tư vấn viên pháp luật chưa có đủ 02 năm kinh nghiệm làm việc ở các tổ chức tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý thì không phải là người thực hiện trợ giúp pháp lý theo Luật năm 2017.
Thứ ba, về cộng tác viên trợ giúp pháp lý: Những người có đủ điều kiện sau mới được xem xét ký hợp đồng cộng tác viên TGPL: Những người đã nghỉ hưu, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, có nguyện vọng thực hiện trợ giúp pháp lý có thể trở thành cộng tác viên trợ giúp pháp lý, bao gồm: trợ giúp viên pháp lý; thẩm phán, thẩm tra viên ngành Tòa án; kiểm sát viên, kiểm tra viên ngành kiểm sát; điều tra viên; chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án dân sự; chuyên viên làm công tác pháp luật tại các cơ quan nhà nước" (Khoản 2, Điều 24).
Ngoài ra, Luật cũng quy định thêm một điều kiện nữa là chỉ ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, căn cứ vào nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân, điều kiện thực tế tại địa phương, những người đủ điều kiện nêu trên mới được Giám đốc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước đề nghị Giám đốc Sở Tư pháp cấp thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý (Khoản 1, Điều 24).
Về tiêu chuẩn trợ giúp viên pháp lý: Ngoài tiêu chuẩn có phẩm chất tốt, có sức khỏe, không trong thời gian bị xử lý kỷ luật thì trợ giúp viên pháp lý còn phải có trình độ cử nhân luật trở lên; đã được đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư; đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý (Điều 19).
Viên chức của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư theo quy định của Luật. Luật sư được tập sự trợ giúp pháp lý tại Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước. Thời gian tập sự trợ giúp pháp lý là 12 tháng. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước phân công trợ giúp viên pháp lý hướng dẫn người tập sự trợ giúp pháp lý và xác nhận việc tập sự trợ giúp pháp lý. Trợ giúp viên pháp lý hướng dẫn tập sự phải có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm trợ giúp viên pháp lý. Tại cùng một thời điểm, 01 trợ giúp viên pháp lý không được hướng dẫn tập sự quá 02 người.
Việc quy định chuẩn hóa đội ngũ những người thực hiện trợ giúp pháp lý nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và chuyên nghiệp hóa hoạt động trợ giúp pháp lý. Với qui định này, Luật 2017 nâng tiêu chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý ngang với tiêu chuẩn của Luật sư theo Luật Luật sư.
6. Về hình thức trợ giúp pháp lý
Luật năm 2017 đã thu hẹp các hình thức trợ giúp pháp lý so với Luật năm 2006, chỉ còn 03 hình thức là: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng. Cụ thể:
Tham gia tố tụng: Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này và pháp luật về tố tụng (Khoản 1, Điều 31).
Tư vấn pháp luật: Người thực hiện trợ giúp pháp lý tư vấn pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý bằng việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hòa giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc (Khoản 1, Điều 32).
Đại diện ngoài tố tụng: Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Khoản 1, Điều 33).
7. Về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác trợ giúp pháp lý
Luật năm 2017 quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác trợ giúp pháp lý. Theo đó Luật quy định: "Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện cho người được trợ giúp pháp lý được hưởng quyền trợ giúp pháp lý, tạo điều kiện cho người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật" (Khoản 2, Điều 41); Đồng thời Luật cũng quy định thời hạn cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại địa phương về yêu cầu trợ giúp pháp lý của bị can, bị cáo, người bị hại là người được trợ giúp pháp lý (Khoản 3, Điều 31).
Nguyễn Văn Khánh